Bình luận BLHS 2015: Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả

Bình luận BLHS 2015: Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả

Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi, mua bán các loại tiền giả.

Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả được quy định tại điều 180 BLHS 1999 tách từ tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá huỷ tiền tệ quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985. Điều 207 BLHS 2015 quy định về tội danh này, nhưng đã bỏ đi hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành, ngân phiếu giả, công trái giả.

Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả
Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả
  1. Về phía người phạm tội

a. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai có năng lực hành vi và đến một độ tuổi nhất định đều có thể là chủ thể của tội phạm này.

b.Hành vi phạm tội

Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả có thể thực hiện hành vi sau:

Làm tiền giả;

Tàng trữ tiền giả;

Vận chuyển tiền giả;

Lưu hành tiền giả.

Nếu xác định một cách đầy đủ thì người phạm tội có thể thực hiện đến 4 hành vi phạm tội khác nhau.

Ngoài hành vi khách quan, đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả nhà làm luật không quy định các dấu hiệu khách quan khác như đối với một số tội phạm khác. Tuy nhiên, khi xác định thê nào là tiền giả các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn về để biết được tiền có phải là giải hay không.

c.Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng viẹc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa rất lớn đối với việc quyết định hình phạt. Người phạm tội vì trục lợi mà làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả nguy hiểm hơn nhièu so với người phạm tội biết là tiền giả nhưng vì tiếc của mà đem lưu hành ( thường là bị trả nhầm tiền giả sau đó mới biết nhưng vì tiếc của nên đem tiêu).

  1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý tiền tệ/

Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền

  1. Hậu quả

Đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hậu quả do hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả gây ra là rất nghiêm trọng vì nó xâm phạm đến việc phát hành, lưu hành, quản lý tiền tệ của Nhà nước. Cũng chính vì tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội này nên nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, tức là chưa cần gây ra hậu quả tội phạm đã hoàn thành.

  1. Hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLHS 2015, người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Theo quy định tại khoản 2 điều 207 BLHS 015, phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 50.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

An Nguyên

ĐẶT CÂU HỎI CỦA BẠN

Mọi câu hỏi xin gửi đến email: [email protected]. Nếu cần trả lời khẩn cấp, vui lòng gọi tổng đài tư vấn 1900 6665. Xin cảm ơn!

Contact Me on Zalo